Pages

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

Thanh tra- Quyền kiểm soát quyền lực của bộ máy hành pháp


Mặc dù, pháp luật về thanh tra có quy định khác nhau về đối tượng thanh tra, nhưng thanh tra về thực chất là kiểm soát việc thực hiện quyền lực trong bộ máy hành pháp và đối tượng của nó là các cơ quan, chức vụ thực hiện quyền hành pháp.
Quyền hành pháp và quyền thanh tra: Thống nhất về tổ chức và khác biệt về thẩm quyền.
Thanh tra được đặt vào tổ chức hành pháp nên cơ cấu tổ chức của quyền hành pháp và của quyền thanh tra có sự tương đồng. Đó là, tổ chức hành pháp bao gồm hệ thống thứ bậc tập quyền cao nhất vào Chính phủ, Bộ và các tầng lớp của chính quyền địa phương và đang vươn xuống thôn, bản, ấp. Đặc trưng tổ chức này đã ảnh hưởng có tính tương đồng với hệ thống các cơ quan thanh tra gồm Thanh tra Chính phủ, Thanh tra cấp tỉnh, huyện, Thanh tra nhân dân ở cấp xã và Thanh tra ngành, lĩnh vực. Nhân sự của hệ thống hành pháp gồm các chính khách giữ vị trí lãnh đạo trong Chính phủ, Bộ, Uỷ ban nhân dân và các dân biểu cùng hệ thống công chức được chia thành ngành, ngạch, bậc theo cấp độ khác nhau với hệ số quyền lợi khá phức tạp. Mô hình ấy cũng được áp sang hệ thống Thanh tra với danh xưng khác. Nguồn lực của hành pháp gồm tài chính công, tài sản công, (công sản) vẫn còn khá lớn vì còn nhiều doanh nghiệp, sự nghiệp Nhà nước.

Cùng với nguồn lực là hệ thống hồ sơ Nhà nước và hồ sơ dân sự là cơ sở đặc biệt phục vụ quản lý nhà nước. Hệ thống Thanh tra cũng có nguồn lực tương tự như vậy. Công quyền là cấu thành quan trọng của hành pháp và Thanh tra được phân công, phân cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ càng tạo ra sự phức hợp, đa diện, đan xen. Quyền hạn được cụ thể bằng thẩm quyền trong hành pháp và trong Thanh tra. Bên cạnh đó là sự tương đồng về trình tự của hành vi công vụ được pháp luật hoá và quy chế hoá tạo thành các thể chế, tính chuyên nghiệp của quản lý hành chính nhà nước…

Nếu tiếp cận từ nội dung quản lý hành chính có thể kể ra các thẩm quyền của hành chính nhà nước và thẩm quyền khác biệt có tính đối trọng của Thanh tra.

Một là, hành pháp có thẩm quyền lập quy dưới luật và có đặc quyền tiên quyết bằng quyền lực hành chính. Như vậy, về nguyên tắc lập quy là hợp luật. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, điều kiện khác nhau nên lập quy có thể trái luật.

Khi lập quy trái luật cần được đánh giá bằng quyền lực kiểm soát. Thanh tra Nhà nước có thẩm quyền này là điều cần thiết để bảo đảm pháp chế.

Hai là, thẩm quyền bảo đảm tự do, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân, tổ chức bằng các hoạt động cấp, đăng, chứng và cung cấp hồ sơ khi có nhu cầu hợp pháp.
Nếu thẩm quyền này không được hoặc thực hiện sai lệch sẽ làm phương hại tới quyền công dân và do vậy nó đòi hỏi phải được đánh giá bởi kiểm soát quyền lực Nhà nước, trong đó có quyền thanh tra.

Ba là, hành pháp có quyền và nghĩa vụ giải quyết tranh chấp hành chính xuất hiện từ hành vi khiếu nại, khiếu kiện của công dân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có nội dung cơ bản là đánh giá tính hợp pháp, tính hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Bốn là, hành pháp có quyền cưỡng chế hành chính bằng thẩm quyền phòng ngừa, ngăn chặn xử phạt hành chính; có quyền trưng dụng, trưng mua tài sản của dân trong trường hợp cần thiết, vì lý do an ninh, quốc phòng. Khi có hành vi lạm quyền trong cưỡng chế hành chính thì phải thực hiện kiểm soát quyền lực ấy, trong đó thanh tra là một quyền quan trọng để đánh giá sự lạm quyền.

Năm là, thẩm quyền quản lý, tổ chức dịch vụ công cộng thuộc về hệ thống hành chính. Hành chính bao cấp nắm giữ các bảo đảm xã hội đã chuyển giao chức năng bảo đảm đó cho cá nhân, tổ chức dân sự, được gọi là dịch vụ công cộng. Trong phạm vi này, công quyền có khả năng cùng với cá nhân, pháp nhân trục lợi, làm sai lệch chức năng xã hội của Nhà nước. Đây chính là đối tượng cần được đánh giá bằng quyền lực kiểm soát quyền hành pháp từ phía quyền thanh tra.

Sáu là, quản lý phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng, nhưng có thể bị lạm dụng bằng biến sở hữu Nhà nước giá hời thành sở hữu tư nhân giá cao. Cùng nhiều hành vi vi phạm khác có thể xảy ra. Do vậy các hiện tượng ấy cần được kiểm soát và thanh tra kinh tế - xã hội có vai trò này.

Hành pháp ra quyết định, Thanh tra đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính.
Các cơ quan thực hiện quyền hành pháp có thẩm quyền ra quyết định hành chính, bằng hình thức văn bản hoặc được thực hiện trực tiếp bằng hành vi và chúng được liên kết trong một chỉnh thể toàn vẹn. Tính toàn vẹn đó được thể hiện: Hành vi xuất hiện từ quyết định, quyết định được thực hiện bởi hành vi. Có thể diễn đạt khác đi rằng quyết định thể hiện ý chí, còn hành vi biến ý chí trong quyết định thành hiện thực.
Đa phần cá nhân, tổ chức nhận quyết định hành chính, dù là quyết định bảo đảm quyền hay quyết định đòi hỏi thực hiện nghĩa vụ, đều thực hiện quyết định đó.

Trong thực hiện thẩm quyền hành chính nhà nước, quyết định hành chính là thuật ngữ dùng chung cho cả văn bản hành chính và hành vi hành chính.

Quyết định hành chính có tính tổng hợp. Tính chất này thể hiện ở chỗ hành pháp cần đúng chính sách, trong khuôn khổ Hiến pháp và Luật, theo thẩm quyền, phù hợp với hoàn cảnh hiện tại cũng như có tính tới tương lai và luôn chú ý tới tính khả thi, kịp thời, nhất quán.

Quyết định hành chính gồm hai dạng: Quyết định cấp phép và quyết định ra lệnh.

Quyết định hành chính có thể được ban hành trên cơ sở một văn bản pháp quy trái luật hoặc trái văn bản pháp quy có hiệu lực. Trong trường hợp này quyết định hành chính đó bất hợp pháp và phải được đình chỉ hoặc bãi bỏ, nếu pháp luật cho phép làm như vậy. Nếu pháp luật không cho phép cưỡng chế thì cần tìm phương thức khác không có tính cường lực. Nhưng nếu hết cách, khi phải tìm các biện pháp có tính bắt buộc vừa đủ, không vượt mức để đảm bảo mục tiêu quản lý.

Quyết định hành chính có thể bị vô hiệu hoá. Khi một quyết định bất hợp pháp thì phải có biện pháp đình chỉ hoặc bãi bỏ và khôi phục tình trạng đã có trước khi thực hiện quyết định, đồng thời, truy cứu “lỗi” của người ra quyết định. Trong trường hợp quyết định bất hợp lý cũng có thể bị đình chỉ hoặc bãi bỏ và xử lý “lỗi” kỷ luật, mà không được truy cứu “lỗi” pháp lý vì bất hợp lý không là căn cứ trái pháp luật.

Quyết định hành chính có thể bị phản ứng từ xã hội bằng khiếu nại và khiếu kiện tố tụng hành chính. Hiện nay ở nước ta có thể phản ứng các quyết định chính sách, quyết định quy phạm pháp luật trái luật của hệ thống hành pháp. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có cơ chế pháp lý như tài phán hành chính hoặc bảo hiến hành chính để phán quyết.

Các cơ quan thanh tra và các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực thực hiện hành vi quan hệ với các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc cấp dưới bằng hoạt động đánh giá tính bất hợp pháp, tính bất hợp lý của quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hành vi thực hiện ý chí trong quyết định.

Khi thực hiện hành vi đánh giá kể trên cần lưu tâm các khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất, phải đánh giá căn cứ ban hành văn bản và các điều kiện khác có ảnh hưởng tới văn bản để xác định tính bất hợp pháp và kiến nghị xác đáng các hình thức xử lý nhằm bảo đảm kỷ cương, kỷ luật quản lý nhà nước.

Thứ hai, khi đánh giá văn bản hành chính nhà nước không nên tách rời tính hợp pháp, tính hợp lý. Vì hợp pháp và hợp lý sẽ tạo ra giá trị xã hội và hiệu quả của quyết định hành chính. Đồng thời cần lưu ý đến sự mâu thuẫn, xung đột giữa tính hợp pháp và tính hợp lý. Do pháp luật không điều chỉnh kịp thời với sự chuyển đổi nhanh của kinh tế - xã hội dẫn đến việc ưu tiên tính hợp pháp của hệ thống pháp luật còn nhiều quy định lạc hậu sẽ làm kém đi tính năng động, sáng tạo xuất phát từ tính hợp lý.

Thứ ba, xây dựng từng bước tiến tới hoàn thiện chương trình lập pháp, lập quy nhằm đạt được điều kiện: Cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Đồng thời, cần tạo ra một hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp lý của văn bản, hành vi hành chính là sự lựa chọn tối ưu trong phạm vi hợp pháp.

Hai điều mong muốn trên chỉ có thể đạt được khi các văn bản quy phạm pháp luật có tính khả thi. Nghĩa là pháp luật phải điều chỉnh các quan hệ xã hội trên nguyên tắc cân bằng các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể mà quan hệ có tính xã hội của họ là đối tượng điều chỉnh của pháp luật.

Thứ tư, cần xây dựng các đạo luật chung điều chỉnh rộng và các luật chuyên sâu điều chỉnh hẹp để giảm tối đa Pháp lệnh hoặc Nghị định độc lập. Nếu làm được như vậy thì mới có thể thực hiện được nguyên tắc: Quản lý hành chính trên cơ sở luật và nhằm thực hiện luật và giảm dần “rừng” luật do hành pháp ban hành, tạo cơ sở cho tính hợp pháp nảy nở hoà đồng với tính hợp lý.

Thứ năm, nâng cao nhận thức và hiểu biết về tính hợp pháp đối với công chức, đặc biệt là công chức tham mưu, giúp việc trong hoạt động ban hành văn bản hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính.

Toàn bộ hoạt động của cơ quan hành chính đều bị chi phối bởi tính hợp pháp. Hành pháp có quyền lập quy, nhưng không có quyền vi phạm nguyên tắc chung của lập pháp và nguyên tắc về sự thanh tra, kiểm tra và tài phán hành chính hướng tới đánh giá tính bất hợp pháp của quyết định hoặc hành vi hành chính.

Nguyên tắc tính tổng hợp trong hành chính nhà nước chỉ chi phối riêng đối với các cơ quan hành chính nhà nước; không liên quan đến các đại biểu của cơ quan dân bầu để thực hiện quyền lực chính trị và các thẩm phán trong hoạt động tố tụng tư pháp. Bởi lẽ luật và bản án tư pháp không phải là đối tượng tranh tụng.

Nhận thức trên có thể còn được tranh luận. Tuy vậy, nhận thức và hiểu biết rộng và sâu các nội dung này sẽ là tiền đề quan trọng trong tham mưu và quyết định cho ban hành văn bản hành chính và thực hiện hành vi hành chính.

Chức năng thiết yếu của Thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước được thể hiện rõ trong bảo đảm, bảo vệ tính hợp pháp, tính hợp lý của quyết định hành chính và hành vi hành chính. Chính sự bảo đảm, bảo vệ này là tác động quan trọng làm vững chắc hiệu lực của hệ thống hành chính nhà nước, mà nhờ đó đem lại hiệu quả xã hội. Nhưng thực tế chỉ ra rằng bảo đảm, bảo vệ này chưa đủ mạnh bởi địa vị pháp lý của thiết chế thanh tra. Do vậy, cùng với đánh giá của thanh tra cần có thiết chế độc lập và mạnh mẽ hơn là tài phán hành chính để phán quyết về tính hợp pháp, tính hợp lý của quyết định và hành vi của hệ thống hành chính nhà nước./.


Để nâng cao hiệu quả xử lý hành vi tham nhũng

Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh; người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị nào, chức vụ nào đều phải bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Việc xử lý đối với người có hành vi tham nhũng trước hết phải được tiến hành trên nguyên tắc mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh; người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị nào, chức vụ nào đều phải bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật; việc xử lý tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật; tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật... Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc xử lý tham nhũng bao gồm:
- Có sự phối kết hợp giữa các tổ chức đảng với chính quyền trong công tác kiểm tra, xử lý vi phạm về tham nhũng của cán bộ, đảng viên. Các cơ quan này phải thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về công tác phòng, chống tham nhũng; tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và kiến nghị các cơ chế chính sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng. Các hình thức phối hợp cần linh hoạt, nếu hai tổ chức, đơn vị hoặc nhiều tổ chức, đơn vị phối hợp với nhau thì có một tổ chức, đơn vị chủ trì và chịu trách nhiệm chính.
- Các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền cần thực hiện nghiêm việc xử lý hành chính đối với các cán bộ, công chức, viên chức có hành vi tham nhũng. Kết quả của việc xử lý được công khai để nhân dân giám sát.
- Các cơ quan Thanh tra cần tập trung thanh tra, kiểm tra tại một số lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng như quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài sản công và thu-chi ngân sách v.v. Đối với vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, cần thành lập Đoàn công tác liên ngành bao gồm các cơ quan Thanh tra, Kiểm tra đảng, Kiểm toán, Công an, Viện kiểm sát. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng, thì trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày phát hiện dấu hiệu tội phạm, phải chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
- Cơ quan Điều tra ngoài việc phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán, Hải quan, Thuế, Kiểm lâm trong việc điều tra các vụ án về tham nhũng.
- Viện kiểm sát cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm về tham nhũng; cần phân công Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ quá trình điều tra vụ án về tham nhũng và báo cáo thường xuyên tiến trình điều tra vụ án cho cấp lãnh đạo biết; kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án sao cho xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Cơ quan Tòa án khi thụ lý hồ sơ vụ án về tham nhũng, phải đưa vụ án ra xét xử sớm hơn theo quy định của pháp luật; đối với loại tội phạm này, cần xét xử nghiêm minh, hạn chế cho các bị cáo hưởng án treo và xử dưới mức khởi điểm của khung hình phạt; toàn bộ các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật về tội tham nhũng cần phải được thanh tra, kiểm tra việc thi hành và phải được xem xét lại  theo thủ tục giám đốc thẩm. Có như vậy, mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc xử lý các hành vi tham nhũng như:

+ Bổ sung một số tội danh tham nhũng mới như làm giàu bất chính, hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài hoặc quan chức của các tổ chức quốc tế. Đây cũng là yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề tham nhũng không còn dừng lại trong giới hạn của một quốc gia nào, mà đã trở thành một loại tội phạm xuyên quốc gia;
+ Chuyển tội đưa hối lộ và tội môi giới hối lộ sang nhóm các tội phạm về tham nhũng (của Bộ Luật hình sự);
+ Nên coi các giá trị tinh thần cũng là vật hối lộ, kể cả đưa và nhận hối lộ, vì vật chất và tinh thần là hai giá trị có thể đáp ứng nhu cầu của con người và qua đó có thể làm ảnh hưởng đến các quyết định đúng đắn của người có chức vụ, quyền hạn; đối với tội nhận hối lộ có thể quy định chặt chẽ hơn và giảm bớt nghĩa vụ chứng minh cho các cơ quan tiến hành tố tụng;
+ Nghiên cứu bổ sung quy định về chế độ trách nhiệm đối với Thủ trưởng cơ quan công quyền để xảy ra tham nhũng. Trách nhiệm này chỉ được xác lập trên cơ sở hành vi mà ở đây là hành vi kiểm tra, giám sát các cán bộ, công chức cấp dưới. Việc áp đặt trách nhiệm một cách tràn lan, không căn cứ vào hành vi có thể sẽ đưa đến một kết quả ngược lại và nó có thể sẽ khuyến khích người đứng đầu cơ quan che dấu cho tham nhũng;
+ Cần phải quy định trách nhiệm của pháp nhân trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc người được pháp nhân giao thực hiện hành vi hối lộ vì lợi ích của pháp nhân mà bị kết án về tội đưa hối lộ thì pháp nhân đó bị phạt tiền gấp 5 lần giá trị hối lộ và còn có thể bị tước giấy phép hoạt động hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh, quy định này cũng phù hợp với Công ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng;
+ Hệ thống pháp luật cần đảm bảo sự đồng bộ, hài hòa với việc hoàn thiện các thể chế của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác.
- Về việc xử lý tài sản do tham nhũng mà có thì ngoài việc xử lý theo các quy định của pháp luật hiện hành, cần phải quy định dành một phần để chi cho các nỗ lực trong công tác phòng, chống tham nhũng và một phần chi cho việc phát hiện ra hành vi tham nhũng. Trong quá trình xử lý các vụ việc về tham nhũng cần phải hết sức chú ý đến điều tra, xác minh các tài sản bất minh của kẻ tham nhũng để xử lý.
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét sửa đổi một số quy định của pháp luật nhằm thu hồi tài sản tham nhũng, bổ sung thêm một số hành vi tham nhũng được quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng vào Bộ Luật hình sự (ví dụ: hành vi đưa hối lộ; hành vi môi giới hối lộ; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi, gây hậu quả nghiêm trọng v.v…). Đồng thời, cần lưu ý đến các chế tài phạt tiền, nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản do tham nhũng mà có. Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo các chế độ về trách nhiệm chính trị, hành chính, hình sự và bất kể người đó là ai, ở cương vị nào, dù đương chức hay đã nghị hưu./.

Thanh tra Hành chính, Thanh tra Chuyên ngành-Thực trạng và những vấn đề cần xét

Luật Thanh tra được ban hành năm 2004 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường hoạt động và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra. Mặc dù vậy qua gần năm năm thực hiện, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền trong đó có sự thay đổi đáng kể về nhận thức và vai trò của nhà nước, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với công dân và doanh nghiệp, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những quy định của Luật Thanh tra đã dần dần bộc lộ những quy định không còn phù hợp, nhất là những qui định về các phương thức và loại hình thanh tra.
Trên thực tế, những qui định này đã gây không ít khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan Thanh tra nhà nước trong quá trình thực hiện.
Luật Thanh tra lần đầu tiên đưa ra các khái niệm và định nghĩa về thanh tra trong đó phân biệt hai loại hình thanh tra chủ yếu là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên có thể sự phân biệt này chưa đủ rõ hoặc cũng có thể các hoạt động thanh tra do các cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành hiện nay còn chủ yếu theo “quán tính” mà cho đến nay vẫn còn lúng túng trong việc phân biệt các loại hình thanh tra dẫn đến sự không rõ ràng, chồng chéo trong hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nước.
Thanh tra hành chính, theo qui định của Luật Thanh tra, là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. Theo khái niệm này, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. Thanh tra hành chính vì vậy mà nó mang tính giám sát nội bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội bộ của bộ máy nhà nước hay bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước). Nếu như mục đích chung của thanh tra là “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”(1), thì mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra hành chính là làm trong sạch bộ máy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành. Đối với Thanh tra chuyên ngành thì mục đích của nó là bảo đảm sự chấp hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế-xã hội.
Khoản 2, Điều 4 Luật Thanh tra đưa ra định nghĩa: “Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp”. Xét về bản chất, nội dung của khái niệm này không khác nhiều so với với khái niệm “thanh tra nhà nước” trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990. Cần phải nhắc lại rằng, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 được ban hành trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, theo cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ. Khi đó, Nhà nước quản lý bằng các biện pháp mang nặng tính hành chính. Nhà nước là “”cấp trên” của mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị, kể cả doanh nghiệp (khi đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước). Hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng được tiến hành trên cơ sở các kế hoạch mệnh lệnh hành chính. Mỗi đơn vị kinh tế được coi như đơn vị cơ sở của cơ quan nhà nước chủ quản. Vì thế, mục đích, nội dung, phương pháp tiến hành một cuộc thanh tra đối với cơ quan nhà nước cấp dưới hay đối với một doanh nghiệp về cơ bản là giống nhau. Có thể nói rằng, ở cơ chế kế hoạch hóa tập trung thì mọi hoạt động thanh tra khi đó đều mang tính hành chính. Hay nói cách khác, thanh tra của cấp trên đối với cấp dưới.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường đã kéo theo một loạt những thay đổi. Đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp hơn với sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như quá trình xã hội hoá nhiều lĩnh vực trong đó Nhà nước không còn can thiệp trực tiếp, giữ vai trò chỉ huy thông qua các mệnh lệnh hành chính mà quản lý xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, tạo cơ sở pháp lý cho mọi thành phần hoạt động và phát triển cũng như thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu. Nhà nước, với một quan niệm và nhận thức mới thực hiện vai trò phục vụ xã hội với tính chất là một tổ chức dịch vụ công, Nhà nước có trách nhiệm tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp và cá nhân tự do phát triển. Nhà nước có quyền và có nhiệm vụ tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật, công bằng. Bản thân các cơ quan nhà nước cũng phải hoạt động trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật(2).
Rõ ràng, trong cơ chế quản lý mới, phương thức, cách thức, mục đích nội dung thanh tra đối với các doanh nghiệp không thể mang tính hành chính giống như thanh tra các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nước mà cần phải có sự thay đổi. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều có các cơ quan quản lý nhà nước. Vì thế, việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về từng lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu, do các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện. Đó là lý do của việc xuất hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành trong Luật Thanh tra.
Từ sự phân biệt như vậy mà việc tiến hành thanh tra cũng có sự khác nhau giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, trong đó thanh tra hành chính phải tổ chức đoàn thanh tra, phải có quyết định thanh tra trong khi thanh tra chuyên ngành có thể được thực hiện bởi thanh tra viên độc lập và trên cơ sở sự phân công nhiệm vụ mà không nhất thiết phả có quyết định thanh tra, thanh tra chuyên ngành có quyền xử phạt hành chính trong khi thanh tra hành chính, với đối tượng là cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước chủ yếu áp dụng các biện pháp kỷ luật hành chính...
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động thanh tra những năm qua cho thấy dường như ít ai để ý đến khái niệm thanh tra hành chính bởi vì trong báo cáo tổng kết hoạt động cũng như kế hoạch công tác của ngành thanh tra vẫn thường thấy nói đến hai mảng công việc đó là thanh tra kinh tế-xã hội và công tác thanh tra giải quyết khiếu nại-tố cáo mà cho đến nay trong các văn bản pháp luật về thanh tra không hề thấy có quy định về thanh tra kinh tế- xã hội.
Từ năm 2002 đến nay, Thanh tra Chính phủ cùng với các tổ chức thanh tra nhà nước khác đã tiến hành những cuộc thanh tra lớn như: Thanh tra các dự án đầu tư công trình giao thông; Thanh tra Tổng Công ty hàng không Việt Nam; Thanh tra Dự án đánh bắt cá xa bờ; Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Dự án Hanggar thuộc Tổng Công ty Hàng không; Thanh tra Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam…
Các cuộc thanh tra này là thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành? Câu trả lời thông thường nhất sẽ là: đó là các cuộc thanh tra kinh tế-xã hội. Rất khó có thể tách bạch được trong các cuộc thanh tra này, đâu thực sự chỉ là cuộc thanh tra hành chính.
Trên thực tế hiện nay đang có những quan niệm khác nhau về đối tượng và phương pháp thanh tra hành chính. Quan niệm thứ nhất cho rằng, đối tượng của hoạt động thanh tra hành chính phải là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Theo quan niệm này, hoạt động thanh tra hành chính sẽ không hướng vào các đối tượng là các doanh nghiệp mà phải hướng vào việc xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ cũng như hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Quan niệm thứ hai lại cho rằng, đối tượng thanh tra hành chính bao hàm cả các tổ chức, doanh nghiệp. Theo quan niệm này, cần phải thông qua thanh tra các đối tượng quản lý mà đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành, địa phương có liên quan đến sai phạm của doanh nghiệp bị thanh tra.
Dù quan niệm thế nào đi chăng nữa thì có một thực tế là: phần lớn các cuộc thanh tra hiện nay được mang tên là “thanh tra kinh tế-xã hội” đang được thực hiện theo quan niệm này. Từ khi Luật Thanh tra có hiệu lực, các cơ quan Thanh tra theo cấp hành chính, cùng với các cuộc thanh tra nhằm giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo, vẫn chủ yếu tiến hành các cuộc thanh tra được gọi là thanh tra kinh tế-xã hội. Có nghĩa là thanh tra việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp (và một số đơn vị sự nghiệp), qua đó đánh giá trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước. Cũng cần nhấn mạnh rằng: việc đánh giá trách nhiệm quản lý chỉ là một phần không chủ yếu trong các kết luận thanh tra. Mục tiêu của các cuộc thanh tra kinh tế-xã hội vẫn là tập trung xem xét, đánh giá việc làm của các doanh nghiệp, đơn vị bị thanh tra. Hiệu quả, hiệu lực của các cuộc thanh tra này vẫn chủ yếu được đánh giá qua số liệu các lượng tiền và tài sản bị xâm phạm, các vi phạm về nguyên tắc tài chính, các hành vi có dấu hiệu vụ lợi, tham nhũng và cùng với đó là kiến nghị xử lý trách nhiệm các cá nhân trực tiếp liên quan đến sai phạm đó. Việc đánh giá trách nhiệm quản lý nhà nước thường không được coi là mục tiêu số một, mục tiêu xuyên suốt. Do vậy, các cuộc thanh tra kinh tế-xã hội mà các cơ quan Thanh tra nhà nước đang tiến hành hiện nay rất khó có thể xếp vào loại hình thanh tra nào theo quy định của Luật Thanh tra.
Trong thời gian qua, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành một số cuộc thanh tra theo gần đúng nghĩa của thanh tra hành chính. Đó là những cuộc thanh tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo (hay còn được gọi là thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo) hoặc thanh tra việc thực hiện các qui định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đây là những cuộc thanh tra hướng vào các chủ thể quản lý, trực tiếp coi hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước là đối tượng thanh tra. Các cuộc thanh tra này cũng đưa ra các kết luận trực tiếp đánh giá hiệu quả công việc, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước. Mặc dù vậy, số lượng các cuộc thanh tra này còn chiếm tỷ lệ không lớn và cũng mới chỉ tập trung vào hai lĩnh vực: giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Trong khi đó, hoạt động quản lý nhà nước diễn ra ở đều khắp các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội nhưng lại chưa được thanh tra trách nhiệm của các chủ thể quản lý.Đó chính là một số khó khăn vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn công tác thanh tra, nhất là thanh tra hành chính.
Với thanh tra chuyên ngành, mặc dù có vẻ như thuận lợi hơn so với thanh tra hành chính nhưng không có nghĩa là thanh tra chuyên ngành không có những vướng mắc từ trong nhận thức, trong tổ chức cũng như hoạt động. Một điều hiển nhiên là đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành lớn hơn rất nhiều so với thanh tra hành chính, trong khi đó về tổ chức nhân sự thì lại không có sự tương xứng, chính vì vậy nếu chỉ có thanh tra viên của các tổ chức thanh tra nhà nước (ở bộ và cấp sở) có thể thực hiện thanh tra chuyên ngành thì chắc chắn là không thể kham nổi. Chẳng hạn một đợt thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội mà chỉ có các thanh tra viên Sở Y tế thực hiện thì khó có thể nói là bảo đảm. Từ thực tế đó là thanh tra chuyên ngành được tổ chức rất đa dạng, thậm chí là ngoài qui định của Luật Thanh tra. Chẳng hạn Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 thí điểm thành lập thanh tra xây dựng quận, huyện và thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn không căn cứ vào các văn bàn pháp luật về công tác thanh tra, trong khi lực lượng này thực chất là đảm nhiệm hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng. Rất nhiều hoạt động thanh tra chuyên ngành được thực hiện như là hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý và không ít người cho rằng không nên xếp nó vào loại hoạt động thanh tra về việc tổ chức nên để cho các cơ quan quản lý ngành được chủ động tuỳ thuộc vào đặc điểm của lĩnh vực quản lý.
Một vấn đề khác có tính chất lý thuyết nhiều hơn, một số bộ, ngành mà đối tượng quản lý của nó chủ yếu là bộ máy và con người trong các cơ quan nhà nước tuy cũng có hoạt động thanh tra đối với hai đối tượng khác nhau: các cơ quan đơn vị trực thuộc bộ và các cơ quan nhà nước khác thì ở đây có tồn tại hoạt động thanh tra chuyên ngành hay không? Chẳng hạn Thanh tra Nội vụ thực hiện thanh tra việc tuyển dụng cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước khác? Hay Thanh tra Bộ ngoại giao có hoạt động thanh tra chuyên ngành hay không?
 Khái niệm thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng dùng để chỉ một hoạt động cụ thể nhân danh quyền lực công (bởi thanh tra là một khâu của quản lý nhà nước, ở đâu có quản lý nhà nước, ở đó có hoạt động thanh tra).
 Thanh tra (Inspection) tồn tại từ khi có nhà nước, đặc biệt trong điều kiện khoa học quản lý, nhà nước phát triển theo bình diện "thế giới phẳng" thì các quốc gia đều có nhận thức chung: Thanh tra - một loại hình (công cụ) của quyền lực nhà nước(1). Nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng thanh tra, nhưng với cách thức khác nhau, đa phần, do cấu trúc nhà nước hoặc cơ cấu kinh tế (thậm chí là quan niệm về quyền lực) khác nhau nên cấu tạo hoạt động cũng như các tổ chức thanh tra khác nhau. Có quốc gia chỉ sử dụng thanh tra nhà nước (thanh tra của Quốc hội); thanh tra của Chính phủ (thanh tra hành pháp); kiểm toán; có nước chỉ sử dụng thanh tra chuyên ngành; có nước sử dụng thanh tra như một lực lượng cảnh sát (hoặc bán cảnh sát) hoặc phân về các ngành quản lý để phục vụ quyền lực; thậm chí có một số quốc gia coi thanh tra là một loại hoạt động mang tính hiệp hội thám tử (detective)...(2)

Cho dù dưới hình thức nào, thanh tra hoặc thanh tra chuyên ngành cũng là loại hoạt động nhân danh quyền lực công tác động đến đối tượng quản lý để phát hiện (tốt - xấu), bảo vệ pháp luật, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tuỳ theo tính chất quản lý, ngành, lĩnh vực khác nhau và điều kiện cụ thể ở mỗi nước mà người ta lựa chọn mô hình khác nhau.

Ở nước ta, theo Luật Thanh tra có Thanh tra nhà nước (bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) và Thanh tra nhân dân.

Thanh tra chuyên ngành được hiểu là "hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý" (khoản 3, Điều 4 Luật Thanh tra năm 2004). Theo đó, xác định Thanh tra chuyên ngành là một loại Thanh tra nhà nước được thành lập theo ngành, lĩnh vực (điểm b, khoản 1, Điều 10). Việc xác định vị trí, tính chất của Thanh tra chuyên ngành như trên là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, cần xem xét các khái niệm này một cách khoa học hơn: một là, nếu đã xác định Thanh tra chuyên ngành là loại hình nhân danh quyền lực nhà nước thì không nên quy định nó là một bộ phận của Thanh tra nhà nước (vì về lý thuyết, không có khái niệm thanh tra nhà nước), chỉ có thanh tra (nhân danh quyền lực nhà nước trong ngành, lĩnh vực) chứ không có "tổ chức thanh tra nhà nước". Tức là thanh tra chuyên ngành mang tính chất nhà nước chứ không phải thanh tra chuyên ngành của nhà nước nói chung; hai là, cần hiểu rõ tính chất nhà nước trong điều kiện hiện nay, có thể do Nhà nước thành lập (các Bộ thành lập) như thanh tra chuyên ngành ở một số bộ, ngành đang hiện hữu, nhưng cũng có thể không do Nhà nước thành lập (mà uỷ quyền thành lập). Sự uỷ quyền ở đây lại được chia ra thành hai phạm vi : (1) Bản thân cơ quan, bộ, ngành thành lập; (2) có thể uỷ quyền cho các tổ chức xã hội hoặc hiệp hội gắn với chuyên ngành (Hội bảo vệ người tiêu dùng, Hội quy chuẩn, tiêu chuẩn, Hiệp hội giao thông vận tải v.v…). Không nhất thiết là, cứ có ngành nào thì cơ quan ngành đó lại thành lập thanh tra chuyên ngành (nhằm khắc phục tính chất cục bộ, vừa đá bóng, vừa thổi còi). Tuy nhiên, phạm vi này còn phụ thuộc vào trình độ quản lý nhà nước ở mỗi quốc gia(3). ở nước ta hiện nay, việc áp dụng phạm vi thứ nhất là phù hợp.

Khoa học quản lý ở nước ta chưa đưa ra được các tiêu chí về cơ quan hành chính với đầy đủ tính chất của một loại hoạt động chấp hành và điều hành. Có quan niệm cho rằng, chỉ các cơ quan trong hệ thống Chính phủ là cơ quan hành chính; lại có quan niệm xem hoạt động hành chính là một thuộc tính của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước (không phân biệt lập pháp, hành pháp, tư pháp). Do đó, tất cả các cơ quan trong bộ máy đều là cơ quan mang tính hành chính. ý kiến chính thống về vấn đề này được quan tâm nhiều là chỉ có cơ quan hành chính quản lý nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật có các dấu hiệu như: (1) Ban hành quyết định quản lý; (2) triển khai thực hiện các quyết định quản lý nhà nước; (3) kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quyết định quản lý nhà nước mới là cơ quan hành chính nhà nước (hay nói cách khác, đó là hoạt động chấp hành và điều hành). Cũng với tư duy trên, chỉ có chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý nhằm mục đích lập lại trật tự quản lý thì mới có quyền thanh tra hoạt động quản lý.
Theo Hiến pháp 1992, các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm: ở Trung ương: Chính phủ, Thủ tướng, các bộ, cơ quan ngang bộ; ở địa phương: UBND và Chủ tịch UBND các cấp; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND (sở, phòng, ban).
Theo sự phân công lao động và tính chất của quản lý thì các chế định này đều cần có thanh tra. Trong cách phân chia theo ngành, lĩnh vực thì Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đều có thanh tra ( thanh tra chuyên ngành), còn thanh tra hành chính (theo cách gọi của Luật Thanh tra) chỉ là loại thanh tra nội bộ, thanh tra trách nhiệm (trách nhiệm kỷ luật) của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước của Bộ. Do vậy, không phải ngẫu nhiên, hiện nay số lượng thanh tra hành chính ở các Bộ là rất ít (20 - 30 người) còn lại số lượng thanh tra chuyên ngành rất đông (có ngành lên tới hàng chục ngàn người).
Đáng tiếc, Luật Thanh tra đã không thể hiện được lý luận và thực tiễn này, mà lại gộp cả "thanh tra hành chính" với "thanh tra chuyên ngành" vào làm một, gọi là "thanh tra nhà nước" (trong khi 2 loại này khác nhau cả về tính chất và tổ chức hoạt động).
Chúng ta cần biết, ngành là tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh cùng một loại sản phẩm nhất định, bất luận các đơn vị, tổ chức đó có quy mô như thế nào và thuộc thành phần kinh tế nào. Sự phân chia các mặt hoạt động xã hội thành "ngành" là kết quả phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển sản xuất và chuyên môn hoá các loại hoạt động khác nhau của con người. Tuỳ theo các cách phân loại sản phẩm chung - riêng, rộng - hẹp khác nhau mà người ta chia ra các ngành, phân ngành, ngành chuyên sâu... Sự phân công lao động xã hội phần nhiều quy định sự phân công lao động quản lý. Tuy nhiên, không phải mỗi ngành đều cần một trung tâm quản lý duy nhất ở các Bộ. Bộ, trong cải cách hành chính hiện nay thường là cơ quan quản lý nhiều ngành hoặc lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội, hành chính - chính trị. Việc tách quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh hiện nay sẽ loại bỏ Bộ chủ quản, tức là không cần Bộ chủ quản. Các cơ quan quản lý ngành (Bộ) chỉ có chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, tức là hoạt động mang tầm vĩ mô nhằm hướng quản lý nhà nước của Bộ mình đi đúng hướng, đúng mục đích và có hiệu quả. Thanh tra ngành cũng nằm trong bối cảnh này. Điều đó có nghĩa là, thanh tra chuyên ngành là một tất yếu khách quan trong quản lý nhà nước ở các bộ, ngành (càng nhiều ngành thì tổ chức thanh tra càng rộng và diện hoạt động càng chuyên sâu).

Với lập luận trên, một Bộ chỉ có một loại thanh tra chuyên ngành của Bộ. Trong điều kiện xây dựng Bộ đa ngành, đa lĩnh vực thì Bộ nào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì cần thiết phải tổ chức thanh tra chuyên ngành ở các ngành, lĩnh vực đó (không kể quy mô lớn - nhỏ). Nhưng lưu ý, Bộ chỉ có một loại tổ chức thanh tra chuyên ngành, thực hiện nhiều nhiệm vụ chuyên ngành khác nhau. Ví dụ: Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch có một tổ chức thanh tra chuyên ngành chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng, trong đó, các loại phân ngành như thanh tra Văn hoá, thanh tra Du lịch, thanh tra Thể thao, thanh tra Di sản văn hoá, thanh tra Thư viện. . .được thành lập với các tổ chức tương ứng như các phòng, ban nhưng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thanh tra chuyên ngành Bộ (Chánh thanh tra) và người đứng đầu thanh tra chuyên ngành Bộ này chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch. Không nên có các Chánh thanh tra (hoặc các tổ chức thanh tra độc lập, tách rời Chánh thanh tra Bộ, Bộ trưởng) ở các ngành khác nhau. Có thể có các thanh tra viên của các ngành, lĩnh vực tương ứng. Tương tự, thanh tra Sở cũng vậy(4).
Theo cách lập luận trên, Luật Thanh tra 2004 đã đi quá xa lý thuyết và trong thực tiễn bị xé lẻ bởi thanh tra Bộ (thanh tra hành chính) với thanh tra chuyên ngành (tổng cục, cục). Các loại thanh tra chuyên ngành ở các bộ hiện nay hầu như độc lập với nhau, không chịu sự chỉ huy từ một trung tâm là Bộ. Chính vì vậy các kết quả thanh tra, quyết định thanh tra còn kém hiệu quả, cục bộ và không phản ánh hết bản chất của hoạt động chấp hành - điều hành mà người đứng đầu là Bộ trưởng.

Cần nhận thức, hậu quả của thanh tra hành chính là trách nhiệm kỷ luật (chế tài kỷ luật bằng 6 hình thức kỷ luật theo Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành); còn hậu quả của thanh tra chuyên ngành là trách nhiệm hành chính (các loại chế tài xử phạt: xử phạt chính, phạt bổ sung; các biện pháp áp dụng khác...).
Như trên đã phân tích, yêu cầu khách quan phải có thanh tra chuyên ngành, nhưng cần xác định: đã xuất hiện các loại hình tổng cục, cục để giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước trong lĩnh vực nào đó thì bản thân định chế Tổng cục, Cục cũng là loại "tai mắt" của Bộ trưởng; chẳng hạn Tổng cục Thuế là cơ quan được thành lập giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thu thuế. ở lĩnh vực này không nhất thiết phải có thanh tra Thuế vì bản thân các công chức đi thu thuế cũng là một chủ thể thanh tra. Không thể có chuyện "tôi đi thu thuế, tôi lại thanh tra chính đối tượng phải nộp thuế hoặc bản thân tôi"? Tương tự, Hải quan cũng không cần có thanh tra Hải quan; hoặc bản thân cảnh sát giao thông là một loại thanh tra giao thông rồi, có cần thiết có thanh tra giao thông chuyên ngành của Bộ Giao thông vận tải? (Không nên quan niệm tình hình giao thông quá lộn xộn nên cần có sự can thiệp của Nhà nước thông qua các loại hình thanh tra). Nên chăng, số lượng thanh tra giao thông này chuyển hẳn về lực lượng thanh tra chuyên ngành (hiện cảnh sát giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt đang đảm nhiệm?).
Khi thành lập tổng cục, về mặt tổ chức, cần cân nhắc loại tổng cục nào có chức năng quản lý nhà nước (có hoặc có nhưng lại có phần giao thoa giữa tổng cục với các bộ phận khác hoặc với chính Bộ đó), tổng cục nào giúp Bộ trưởng (tổng cục trong Bộ) thực hiện chức năng quản lý nhà nước? Hiện nay, theo Nghị định 1 78 thì các tổng cục thuộc Bộ là cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Do đó, các tổng cục hiện nay không có cơ quan thanh tra chuyên ngành (vì tổng cục không có chức năng quản lý nhà nước). Các quy định về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước hiện hành và Luật Thanh tra (từ Điều 23 đến Điều 29) chưa quán triệt hết quan điểm trên. Vì vậy, trong quy định còn chưa thống nhất, hoặc "giao nhiệm vụ này cho Chính phủ” hoặc quy định ngay trong luật chuyên ngành. Cách quy định này sẽ dẫn đến xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật với hàng loạt các nghị định về thanh tra tổng cục ra đời không phù hợp với Luật Thanh tra và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Những vướng mắc trên đây cho thấy nhiều quy định của Luật Thanh tra chưa đi vào thực tiễn. Nguyên nhân từ đâu, bản thân quy định của Luật Thanh tra không phù hợp hay do nhận thức chưa đúng luật dẫn đến sự bối rối trong quá trình thực hiện? giải pháp nào cho vấn đề này, về quan điểm nhận thức, về thể chế pháp luật, về công tác chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng các cơ quan quản lý và trong bản thân nội bộ, ngành thanh tra? Đó chính là những câu hỏi đặt ra cho chúng ta để từ đó tìm ra những giải pháp có tính thuyết phục, không chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu sửa đổi Luật Thanh tra trong thời gian tới./.

Phân biệt TT Hành Chính với TT Chuyên Ngành

            Phân biệt TT Hành Chính với TT Chuyên Ngành!
Phân biệt thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành Luật Thanh tra năm 2004 lần đầu tiên đưa ra các khái niệm và định nghĩa về thanh tra, trong đó đã có sự phân biệt hai loại hình thanh tra chủ yếu là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Luật Thanh tra cũng phân biệt hai loại cơ quan thanh tra : Thanh tra được tổ chức theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra cấp huyện) và thanh tra theo ngành và lĩnh vực (đảm nhận cả chức năng thanh tra hành chính và chức năng thanh tra chuyên ngành). Tuy nhiên, sự phân biệt này nhìn chung vẫn chưa đủ rõ. Thực tế trong thời gian vừa qua, Thanh tra Chính phủ cùng với các tổ chức thanh tra nhà nước khác đã tiến hành những cuộc thanh tra lớn về các dự án đầu tư công trình giao thông, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động của các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, việc quản lý và sử dụng đất đai nhưng để phân biệt các cuộc thanh tra này là thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành là rất khó.
Sự phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Mục đích của quản lý nhà nước xét cho cùng là bảo đảm cho mọi hoạt động trong xã hội tuân thủ theo các quy định của pháp luật, bảo đảm cho công dân thực hiện được các quyền cơ bản của mình, tạo điều kiện phát huy mọi năng lực sản xuất của xã hội. Để đạt được mục đích đó, Nhà nước phải phải thực hiện hai nhiệm vụ chính là tăng cường các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và phải thường xuyên hoàn thiện, loại trừ các khuyết tật trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước. Tương ứng với hai nhiệm vụ này là hai loại hình của hoạt động thanh tra : thanh tra chuyên ngành (hướng vào xã hội, các đối tượng quản lý) và thanh tra hành chính (hướng vào bản thân bộ máy quản lý).
- Về thanh tra hành chính:
Theo quy định của Luật Thanh tra (khoản 2 Điều 4): "Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan tổ chúc, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp ". Theo khái niệm này, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. Thanh tra hành chính vì vậy mang tính kiểm soát nội bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội bộ của bộ máy nhà nước hay nội bộ của bộ máy các cơ quan nhà nước, thường là theo hệ thống). Nếu như mục đích chung của thanh tra là “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân" (Điều 3 Luật Thanh tra), thì mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra hành chính là làm trong sạch bộ máy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành. Xét về bản chất, nội dung của khái niệm này không khác nhiều so với với khái niệm "thanh tra nhà nước" trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, được ban hành trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Khi đó, Nhà nước quản lý bằng các biện pháp mang nặng tính hành chính. Hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu được tiến hành trên cơ sở các kế hoạch, mệnh lệnh hành chính. Mỗi đơn vị kinh tế được coi như đơn vị cơ sở của cơ quan nhà nước chủ quản. Vì thế, mục đích, nội dung, phương pháp tiến hành một cuộc thanh tra đối với cơ quan nhà nước cấp dưới hay đối với một doanh nghiệp về cơ bản là giống nhau. ở cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì mọi hoạt động thanh tra khi đó đều mang tính hành chính. Hay nói cách khác, đó chính là thanh tra của cấp trên đối với cấp dưới.
Đối tượng của hoạt động thanh tra hành chính phải là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Hoạt động thanh tra hành chính không hướng vào các đối tượng là các doanh nghiệp mà phải hướng vào việc xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ cũng như hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Không nên cho rằng, đối tượng thanh tra hành chính bao hàm cả các tổ chức, doanh nghiệp nên có thể thông qua thanh tra các doanh nghiệp để đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành, địa phương (phần lớn các cuộc thanh tra được gọi là "thanh tra kinh tế-xã hội" đang được thực hiện theo quan niệm này). Nếu theo quan niệm này, việc đánh giá trách nhiệm quản lý nhà nước trong quá trình thanh tra thường sẽ không được coi là mục tiêu số một, mục tiêu xuyên suốt.
Thanh tra hành chính phải tổ chức đoàn thanh tra, phải có quyết định thanh tra trong khi thanh tra chuyên ngành có thể tổ chức đoàn hoặc có thể được thực hiện bởi thanh tra viên độc lập và trên cơ sở sự phân công nhiệm vụ.
- Về thanh tra chuyên ngành:
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã kéo theo một loạt những thay đổi. Đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp hơn với sự gia tăng về số lượng các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như quá trình xã hội hoá nhiều lĩnh vực, trong đó Nhà nước không còn can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính, mà quản lý xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, bằng luật pháp cho mọi thành phần kinh tế hoạt động và phát triển cũng như thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu. Theo quan niệm, nhận thức mới, Nhà nước thực hiện vai trò phục vụ xã hội với tính chất là một tổ chức dịch vụ công; Nhà nước có trách nhiệm tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp và cá nhân tự do phát triển. Nhà nước có quyền và có nhiệm vụ tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật, công bằng. Bản thân các cơ quan nhà nước cũng phải hoạt động trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật. Trong cơ chế quản lý mới, phương thức, cách thức, mục đích nội dung thanh tra đối với các doanh nghiệp không thể mang tính hành chính giống như thanh tra các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nước mà cần phải có sự thay đổi. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều có các cơ quan quản lý nhà nước. Vì thế, việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về từng lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu, do các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện. Đó là lý do của việc xuất hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành trong Luật thanh tra.
Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành là bảo đảm sự chấp hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động kinh tế tài chính, kinh tế xã hội cũng như trong mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội. 
Đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành có phạm vi rộng hơn rất nhiều so với thanh tra hành chính và chủ yếu là khu vực tư, chẳng hạn các cuộc thanh tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra chất lượng mũ bảo hiểm xe máy, thanh tra tài nguyên môi trường, thanh tra việc khám chữa bệnh hay hành nghề y dược tư nhân, thanh tra xây dựng v.v... 
Thanh tra chuyên ngành có quyền xử phạt hành chính trong khi thanh tra hành chính, với đối tượng là cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước chủ yếu áp dụng các biện pháp kỷ luật hành chính... Thanh tra chuyên ngành thực chất là hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý, kết hợp với xử lý vi phạm.
Một đặc điểm nữa của thanh tra chuyên ngành là tổ chức và hoạt động nó thường do Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của các bộ, ngành và phụ thuộc vài tính chất, phạm vi, đặc điểm của từng bộ, ngành đó (lĩnh vực giáo dục; lĩnh vực y tế, ngoại giao, tài chính v.v…).
Như vậy, trong các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và thực tiễn hiện nay về mô hình tổ chức và hoạt động Thanh tra trong các bộ, ngành rất phức tạp; còn tồn tại mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra khác nhau giữa các bộ, ngành...Những yếu tố này không thể không ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Vì vậy, cần rà soát lại toàn bộ các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến mô hình tổ chức, hoạt động thanh tra trong các lĩnh vực chuyên ngành để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật./.

Phân biệt giữa giám sát và kiểm tra hoạt động Đoàn Thanh tra

Bên cạnh sự thống nhất tương đối về chủ thể, đối tượng, nội dung, mục tiêu thì hoạt động giám sát và kiểm tra có những nét khác nhau về chủ thể, quyền năng và phương pháp tiến hành.
Giám sát là cơ sở để người ra quyết định thanh tra theo dõi, đánh giá hoạt động của Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, chấp hành pháp luật về thanh tra, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức và ý thức chấp hành kỷ luật của thành viên Đoàn thanh tra; nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra để có biện pháp chấn chỉnh, giải quyết. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện thấy những biểu hiện không bình thường trong hoạt động của Đoàn thanh tra thì người ra quyết định thanh tra sẽ tiến hành kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra.

Việc giám sát hoạt động Đoàn thanh tra giúp cho người ra quyết định thanh tra nắm được những sai sót thường hay gặp trong quá trình hoạt động của Đoàn thanh tra từ đó sẽ có kế hoạch kiểm tra chính xác, kịp thời.

Cả hoạt động giám sát và kiểm tra đều có chung chủ thể là Người ra quyết định thanh tra và đối tượng là Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra.

Về mặt nội dung, hoạt động giám sát và hoạt động kiểm tra cũng có những nét tương đồng nhau. Nội dung của giám sát là Người ra quyết định thanh tra giám sát hoạt động Đoàn thanh tra thông qua việc theo dõi, xem xét, đánh giá các hoạt động như: Việc thực hiện Kế hoạch tiến hành thanh tra; thực hiện trình tự, thủ tục thanh tra; chấp hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, ý thức chấp hành kỷ luật của thành viên Đoàn thanh tra; báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của Đoàn thanh tra; xử lý ý kiến khác nhau giữa các thành viên Đoàn thanh tra về những vấn đề liên quan đến cuộc thanh tra của Trưởng Đoàn thanh tra; ghi Nhật ký Đoàn thanh tra; các kiến nghị, phản ánh từ cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra hoặc từ các nguồn thông tin khác về hoạt động của Đoàn thanh tra (nếu có). Trong khi đó việc kiểm tra cũng bao hàm tất cả các nội dung giám sát nói trên nhưng chủ thể giám sát chỉ tập trung vào những vấn đề có nghi vấn là đang vi phạm pháp luật.

Trong hoạt động giám sát hoạt động đoàn thanh tra thì chủ thể ngoài Người ra nquyết định thanh tra còn có sự giám sát của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ, công chức tham gia Đoàn thanh tra.

Chủ thể trong hoạt động kiểm tra là người ra quyết định thanh tra có quyền năng quyết định hoạt động của Đoàn thanh tra. Do vậy hậu quả pháp lý của việc kiểm tra là căn cứ kết quả kiểm tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét, xử lý kịp thời kết quả kiểm tra. Trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người ra quyết định thanh tra thay đổi Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc chuyển sang cơ quan điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó chủ thể trong hoạt động giám sát ngoài người ra quyết định kiểm tra thì còn có chủ thể là Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ, công chức tham gia Đoàn thanh tra. Do vậy mà hậu quả pháp lý giám sát chỉ là căn cứ kết quả giám sát, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc; kiến nghị có liên quan xem xét, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc; kiến nghị có liên qua đến hoạt động Đoàn thanh tra (nếu có), tạo điều kiện thuận lợi để Đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ. Trường hợp có tố cáo hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Người ra quyết định việc kiểm tra hoạt động Đoàn thanh tra.

Về cách thức tiến hành giám sát, kiểm tra cũng rất khác nhau. Giám sát hoạt động Đoàn thanh tra được tiến hành thường xuyên kể từ khi có quyết định thanh tra đến khi có kết luận thanh tra. Còn kiểm tra hoạt động Đoàn thanh tra được thực hiện khi bị tố cáo hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra.

Trong mối liên hệ trên, chúng ta thấy rằng, giữa Giám sát và kiểm tra mặc dù có phương thức khác nhau song có mối quan hệ chặc chẽ với nhau và là một quá trình quản lý hoạt động của Đoàn thanh tra. Xét về mặt chủ thể người ra quyết định thanh tra là chủ thể chính của hoạt động giám sát, kiểm tra. Thực chất đây là một quá trình của hoạt động quản lý của người được trao quyền lực nhà nước đối với đối tượng bị quản lý. Mục tiêu chung là đảm bảo chính sách pháp luật của nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra có phẩm chất đạo đức cách mạng, bảo đảm xây dựng bảo đảm sự trong sạch vững mạnh của bộ máy nhà nước.

Những yếu tố tác động đến chất lượng Báo cáo kết quả Thanh tra

Báo cáo kết quả thanh tra được hoàn chỉnh sau khi Đoàn thanh tra đã kết thúc thanh tra trực tiếp các nội dung được nêu trong quyết định thanh tra. Chất lượng của Báo cáo kết quả thanh tra phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất, mức độ phức tạp của cuộc thanh tra, việc bố trí, phân công lực lượng tiến hành thanh tra… Qua thực tiễn công tác thanh tra, có thể thấy một số yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng Báo cáo kết quả thanh tra.
Trong giai đoạn chuẩn bị tiến hành thanh tra dễ nhận thấy, công tác khảo sát, nắm tình hình trước khi xây dựng kế hoạch tiến hành một cuộc thanh tra cụ thể là một khâu có vai trò rất quan trọng trong công tác thanh tra. Thông qua việc nắm tình hình, thu thập thông tin trước khi thanh tra sẽ giúp cơ quan tiến hành thanh tra rút ngắn được thời gian trong xác định trọng tâm cuộc thanh tra, xây dựng đề cương, kế hoạch thanh tra sát với thực tế. Bên cạnh đó, việc xây dựng đề cương, kế hoạch thanh tra cũng là một việc cần thiết. Từ những nội dung cần thanh tra đã được xác định bước đầu, cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì cuộc thanh tra phải đề xuất cụ thể về nội dung, đối tượng và phạm vi cuộc thanh tra; khái quát những đề xuất này trong quyết định thanh tra và cụ thể hóa trong đề cương, kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra, trình người có thẩm quyền quyết định, phê duyệt.
Thực hiện tốt nhiệm vụ trong khâu này là yêu cầu rất quan trọng trong đảm bảo triển khai thực hiện cuộc thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải về nội dung và không bị kéo dài về thời gian mà vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ yêu cầu đặt ra đối với cuộc thanh tra.
Nếu công tác khảo sát, nắm tình hình và xây dựng đề cương, kế hoạch thanh tra giữ vai trò quan trọng thì công tác chuẩn bị lực lượng cho Đoàn thanh tra là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của cuộc thanh tra. Từ những yêu cầu về nhiệm vụ được giao, cơ quan chủ trì cuộc thanh tra phải lựa chọn nhân lực phù hợp để thành lập Đoàn thanh tra.
Trưởng Đoàn thanh tra là chức danh có vị trí quan trọng đặc biệt, là người chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Đoàn thanh tra. Trưởng Đoàn thanh tra là vị trí tập trung để xử lý các mối quan hệ chủ yếu liên quan đến hoạt động của Đoàn thanh tra. Trong nội bộ Đoàn thanh tra; giữa Đoàn thanh tra với người ra quyết định thanh tra; giữa Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan... Do vậy, lựa chọn đúng người giữ cương vị Trưởng Đoàn thanh tra là yếu tố quyết định đến việc thành công hay không và mức độ thành công của cuộc thanh tra. 
Các thành viên trong Đoàn thanh tra, có những vai trò khác nhau, tùy từng công việc được phân công. Tuy nhiên, dù ở vị trí, vai trò nào thì những yếu tố về năng lực chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được phân công, nghiệp vụ thanh tra, thái độ giao tiếp, ứng xử trong và ngoài Đoàn thanh tra, kỹ năng xây dựng biên bản, báo cáo kết quả những phần việc được giao... đều là những yếu tố cần phải đặt ra khi lựa chọn thành viên cho các Đoàn thanh tra. Đặc biệt, việc lựa chọn thành viên cho Đoàn thanh tra phải hết sức chú ý đến ý kiến của người được dự kiến phân công làm Trưởng Đoàn thanh tra, tránh việc áp đặt chủ quan từ những người có trách nhiệm tham mưu trong xây dựng lực lượng Đoàn thanh tra.
Giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp là giai đoạn trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đến kết quả của cuộc thanh tra. Trong giai đoạn này, rất nhiều các tình huống phát sinh đòi hỏi phải có sự xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật, đòi hỏi Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn thanh tra phải chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình. Việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn thanh tra cần được đảm bảo đúng theo các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành; tuân thủ đề cương, kế hoạch của Đoàn thanh tra đã được phê duyệt. Việc thu thập, xác minh chứng cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật cần được thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đầy đủ các bước theo quy trình khi tiến hành thanh tra trực tiếp.
Ngoài ra, trong giai đoạn thanh tra trực tiếp, chế độ thông tin, báo cáo trong nội bộ Đoàn thanh tra và giữa Đoàn thanh tra với người ra quyết định thanh tra, người được giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra cần được tuân thủ nghiêm ngặt. Trong nội bộ Đoàn thanh tra, việc thực hiện thông tin báo cáo cần thực hiện thường xuyên, đó là việc báo cáo của thành viên Đoàn thanh tra với tổ trưởng, nhóm trưởng, Trưởng Đoàn thanh tra về những nội dung công việc đã và đang tiến hành, các tình huống phát sinh, những vấn đề cần có ý kiến chỉ đạo. Ngược lại, Trưởng đoàn phải kịp thời thông tin đến các thành viên trong Đoàn thanh tra về những nội dung chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra, người được giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, để đảm bảo hoạt động của Đoàn thanh tra được thực hiện thông suốt, phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên với nhau trong quá trình thanh tra trực tiếp.      
Việc tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo giữa Đoàn thanh tra với người ra quyết định thanh tra cũng là nhân tố tác động quan trọng đến kết quả cuộc thanh tra nói chung, việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra nói riêng. Trong quá trình thanh tra, không ít những trường hợp Đoàn thanh tra có những báo cáo đột xuất để người ra quyết định thanh tra cho ý kiến xử lý. Việc xin ý kiến đột xuất này chủ yếu rơi vào các trường hợp khi cần có sự thay đổi, bổ sung lực lượng của Đoàn thanh tra; thay đổi nội dung, thời gian cuộc thanh tra hoặc khi cần thiết phải áp dụng các biện pháp mạnh để thực hiện nhiệm vụ thanh tra như: niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, tạm đình chỉ công tác những người liên quan đến nội dung thanh tra…
Khi Đoàn thanh tra thực hiện báo cáo theo tiến độ hoặc có những báo cáo, xin ý kiến đột xuất, người ra quyết định thanh tra, người được giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra sẽ có những thông tin kịp thời về hoạt động của Đoàn thanh tra và những kết quả bước đầu về các nội dung được thanh tra, kiểm tra, từ đó có những chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tế. Mặc dù việc tiếp nhận và xử lý thông tin từ những báo cáo của Đoàn thanh tra là một kênh thông tin quan trọng trong công tác chỉ đạo, điều hành của người ra quyết định thanh tra, nhưng việc chủ động kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra bằng nhiều hình thức, nhiều kênh thông tin khác cũng rất cần thiết, đảm bảo cho hoạt động thanh tra đúng pháp luật và giúp người ra quyết định thanh tra chỉ đạo kịp thời việc tập trung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm về nội dung; chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót của Đoàn thanh tra (nếu có).  
Việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra được thực hiện tốt sẽ giúp người ra quyết định thanh tra nắm bắt kịp thời kết quả thanh tra tại từng thời điểm cụ thể, từ đó có quyết định đúng đắn, kịp thời về việc chấp thuận hay từ chối hoặc chỉ đạo những biện pháp khác để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của Đoàn thanh tra.
Giai đoạn kết thúc thanh tra, việc xây dựng Báo cáo kết quả thanh tra có thể được Đoàn thanh tra thực hiện ngay khi đang thực hiện thanh tra trực tiếp, sau khi từng phần việc cụ thể đã được hoàn thành. Tuy nhiên, về mặt lôgic thời gian và trình tự tiến hành một cuộc thanh tra, thì việc xây dựng và hoàn chỉnh Báo cáo kết quả thanh tra được Đoàn thanh tra thực hiện sau khi kết thúc việc thanh tra trực tiếp. Đây là giai đoạn mà vấn đề thông tin, tài liệu cần xử lý không nhiều như giai đoạn thanh tra trực tiếp, nhưng đòi hỏi việc tập trung trí tuệ rất lớn của các thành viên Đoàn thanh tra, đặc biệt là vai trò chủ đạo của Trưởng Đoàn thanh tra trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật. Các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện những nội dung thanh tra theo sự phân công của Trưởng Đoàn thanh tra; khi thực hiện nhiệm vụ, thành viên Đoàn thanh tra chịu sự kiểm tra, giám sát của Trưởng Đoàn thanh tra; kết thúc công việc thành viên Đoàn thanh tra phải báo cáo kết quả thanh tra về các nội dung được phân công (kèm theo báo cáo là các tài liệu, chứng cứ có liên quan).
Để xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có) đòi hỏi trình độ nhận thức, ý thức trách nhiệm của người làm báo cáo, xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm của đối tượng với những căn cứ pháp lý rõ ràng, cụ thể giúp cho người ra quyết định thanh tra đánh giá được chính xác, khách quan việc thực hiện chính sách của đối tượng. Xác định rõ trách nhiệm của những đối tượng có sai phạm, khuyết điểm, thiếu sót; chỉ ra nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan làm cơ sở đánh giá, nhận xét mức độ sai phạm, từ đó có các kiến nghị hình thức xử lý cho phù hợp.
Trong giai đoạn này, việc kiểm tra, rà soát chứng cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật là công việc cần phải thực hiện, nhằm chính xác hóa những nhận định, đánh giá bước đầu của các thành viên Đoàn thanh tra đối với từng nội dung đã được kiểm tra. Các thành viên Đoàn thanh tra phải tự kiểm tra, rà soát nội dung công việc của mình, báo cáo kết quả trong tổ, nhóm mình và cùng với các thành viên khác trong tổ, nhóm tiếp tục rà soát, phản biện để đảm bảo những nhận định, đánh giá đưa ra có đủ căn cứ pháp lý và hồ sơ, tài liệu chứng minh, từ đó hình thành nên báo cáo kết quả chung của tổ, nhóm. Trưởng Đoàn thanh tra phải có trách nhiệm tiếp tục rà soát, phản biện những nội dung các tổ, nhóm báo cáo; yêu cầu từng thành viên báo cáo bổ sung, làm rõ những nội dung chưa rõ hoặc không phù hợp với những tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình thanh tra. Nếu báo cáo của từng thành viên Đoàn thanh tra làm không đảm bảo về nội dung, kết cấu, hình thức không hợp lý (ví dụ quá dài dòng, nặng về diễn giải sự việc mà không đưa ra được nhận định, kết luận gì), thì sẽ gây khó khăn cho Trưởng Đoàn thanh tra khi thực hiện việc tổng hợp, biên tập thành Báo cáo kết quả chung của Đoàn thanh tra.
Sau khi các thành viên Đoàn thanh tra có báo cáo về kết quả những phần việc được phân công, Trưởng Đoàn thanh tra trực tiếp biên tập hoặc giao thành viên trong Đoàn thanh tra biên tập thành Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra là trách nhiệm chung của cả Đoàn thanh tra và được cá thể hoá cho các thành viên trong Đoàn thanh tra. Đối với thành viên là Trưởng Đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm phản ánh đầy đủ trung thực kết quả của các thành viên khác trong Đoàn thành tra trên cơ sở phân tích hồ sơ chứng cứ và báo cáo kết quả của thành viên Đoàn thanh tra. Nói một cách khác, Trưởng Đoàn thanh tra không chỉ tổng hợp đơn thuần kết quả của các thành viên trong Đoàn thanh tra mà còn phải xem xét đánh giá trước khi nghiệm thu kết quả của thành viên Đoàn thanh tra khi thấy có căn cứ chắc chắn mới đưa vào Báo cáo kết quả thanh tra. Đây là vấn đề cần nhận thức đúng trong Đoàn thanh tra và cần được thực hiện ngay trong quá trình thanh tra.
Để thực hiện được điều này đòi hỏi Trưởng Đoàn thanh tra không chỉ có trình độ chuyên môn mà đòi hỏi phải có trình độ tổ chức triển khai công việc, khả năng bao quát, quán xuyến được công việc của các thành viên trong Đoàn thanh tra… Trưởng Đoàn thanh tra không can thiệp, làm thay thành viên Đoàn thanh tra nhưng Trưởng Đoàn thanh tra có quyền chất vấn, yêu cầu thành viên Đoàn thanh tra làm rõ những vấn đề nêu trong báo cáo, khi cần thiết yêu cầu xác minh, bổ sung. Trường hợp ý kiến của thành viên trong Đoàn thanh tra và Trưởng Đoàn thanh tra còn khác nhau thì phải nêu trong Báo cáo kết quả thanh tra và xin ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra. Trước khi báo cáo kết quả thanh tra với người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra phải họp Đoàn thanh tra để thông qua dự thảo Báo cáo, rà soát lại tài liệu, chứng cứ của các thành viên trong Đoàn, tập hợp những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý.
Có thể nói, xây dựng và hoàn thiện Báo cáo kết quả thanh tra là những công việc nằm trong giai đoạn kết thúc thanh tra, tuy nhiên chúng có quan hệ mật thiết và phụ thuộc nhiều vào việc chuẩn bị thanh tra và khi tiến hành thanh tra trực tiếp. Chuẩn bị thanh tra tốt là điều kiện cần để tiến hành thanh tra trực tiếp được thuận lợi. Tiếp đó, kết quả thanh tra trực tiếp tốt mà biểu hiện cụ thể là báo cáo kết quả của các thành viên Đoàn thanh tra được xây dựng chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với cuộc thanh tra, sẽ là điều kiện cần để xây dựng Báo cáo kết quả thanh tra đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực./.

Một số vướng mắc trong thực hiện cơ chế giám sát hoạt động Đoàn Thanh Tra

Thứ nhất, nhận thức của lãnh đạo, cán bộ, công chức cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh tra còn chưa đồng đều, chưa thấy rõ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giám sát hoạt động của đoàn thanh tra, chưa quán triệt đầy đủ, sâu rộng cơ chế giám sát, nhất là đối với thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước.

Thứ hai, việc tổ chức thực hiện chưa đồng đều, còn có biểu hiện coi nhẹ, thực hiện chưa đầy đủ, chưa nghiêm túc.

Thứ ba, cơ chế giám sát hiện hành, trình tự, thủ tục giám sát chưa phù hợp với Thanh tra huyện, sở. Các cuộc thanh tra hành chính ở cấp huyện, sở thường do Chánh thanh tra làm trưởng đoàn, do đó việc cử cán bộ, công chức thực hiện giám sát hoạt động của đoàn thanh tra, báo cáo kết quả giám sát là không phù hợp. Đối với cấp này, chỉ cần giao trách nhiệm tự giám sát cho Chánh thanh tra.

Thứ tư, điều kiện đối với cán bộ, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động đoàn thanh tra phải là người am hiểu về lĩnh vực được thanh tra, pháp luật thanh tra; có phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức tốt; có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan... Thực tế hiện nay, những cán bộ thanh tra đáp ứng tiêu chuẩn này còn ít, nhất là cấp quận, huyện, sở. Những cán bộ có tiêu chuẩn như vậy thường đã được lựa chọn để đưa vào đoàn thanh tra nên rất khó khăn khi tìm người để giao giám sát.

Thứ năm, qui định về quyền của người giám sát còn hạn hẹp, nếu chỉ nghe đoàn thanh tra báo cáo mà không có cơ chế kiểm tra thì có thể rơi vào tình trạng thông tin một chiều. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung cơ chế để người giám sát có thể yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, cung cấp thông tin về hoạt động thanh tra thì sẽ có thêm cơ sở để đối chiếu với báo cáo của đoàn thanh tra và kết quả giám sát sẽ khách quan hơn.

Thứ sáu, hoạt động của đoàn thanh tra rất rộng, có nhiều vấn đề về trình tự, thủ tục nên việc giám sát cũng đòi hỏi phải bám sát những vấn đề đó. Tuy nhiên, cơ chế giám sát hiện nay còn có nội dung quan trọng chưa được cụ thể hóa là tiêu chí giám sát, tiêu chí báo cáo của đoàn thanh tra và tiêu chí báo cáo kết quả giám sát. Nội dung giám sát, báo cáo kết quả giám sát đã được qui định nhưng còn chung chung. Trong khi đó trình độ cán bộ thanh tra ở các cấp cũng không đồng đều, do đó để hoạt động giám sát đảm bảo chất lượng, cần nghiên cứu, qui định cụ thể các biểu mẫu, tiêu chí để việc tiến hành giám sát được thống nhất, chặt chẽ hơn nhưng cũng dễ thực hiện hơn./.


Một số điểm mới trong Luật TT sửa đổi


Ngày 15/11/2010, với 81,14% phiếu tán thành, Quốc hội khoá XII đã biểu quyết thông qua Luật Thanh tra (sửa đổi), với 7 chương, 78 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Có rất nhiều điểm mới được quy định trong Luật Thanh tra sửa đổi, song có một điểm mới rất đáng chú ý vì nó làm thay đổi căn bản về bản chất của hoạt động thanh tra, đó là: “Hoạt động thanh tra là nhằm giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các qui định của pháp luật”.

Các điểm mới nằm ở hầu hết các các chương của Luật và dễ nhận ra ngay từ chương đầu tiên. Về mục đích thanh tra, quán triệt lời dạy của Bác Hồ “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”, Luật xác định: “Hoạt động thanh tra là nhằm giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các quy định của pháp luật”. Tuy ngắn gọn như vậy nhưng nó không chỉ làm rõ hơn huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn xác định rõ mối quan hệ của thanh tra với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Theo đó, hoạt động thanh tra là nhằm “giúp” các cơ quan thực hiện đúng các qui định của pháp luật.
Về mục đích hoạt động thanh tra, Điều 2, Luật Thanh tra (sửa đổi) quy định: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Rõ ràng, so với quy định của Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra sửa đổi lần này đã đạt được một bước tiến rất căn bản về nhận thức của hoạt động thanh tra. Luật Thanh tra năm 2004, tại điều 3- đề cập mục đích thanh tra- chỉ quy định: “Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.


Lập hồ sơ TT, KN, TC

Trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là những căn cứ, chứng cứ để đưa ra kết luận thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đồng thời đó cũng là sự thể hiện kết quả của quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo. Chính vì vậy, ngày 24/10/2007, Tổng Thanh tra đã có Quyết định số 2278/2007/QĐ-TTCP ban hành Quy chế lập, quản lý hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo. Dưới đây là những hướng dẫn cơ bản cho nghiệp vụ này:

MỤC 1. LẬP, QUẢN LÝ HỒ SƠ THANH TRA

I. Trình tự lập hồ sơ thanh tra
1. Mở hồ sơ
Thời điểm mở hồ sơ là ngày người có thẩm quyền ký ban hành Quyết định thanh tra.
2. Thu thập, phân loại văn bản, tài liệu, lập mục lục để quản lý.
3. Đóng hồ sơ.
Thời điểm đóng hồ sơ thanh tra là ngày người có thẩm quyền ra văn bản chỉ đạo hoặc quyết định về việc xử lý kết quả thanh tra.
II. Hồ sơ thanh tra
Hồ sơ thanh tra gồm:
1.     Quyết định thanh tra, quyết định gia hạn thời gian thanh tra, quyết định bổ sung hoặc thay đổi thành viên đoàn thanh tra (nếu có);
2.     Kế hoạch thanh tra;
3.     Các văn bản, chỉ thị của cấp có thẩm quyền là căn cứ ra quyết định thanh tra;
4.     Các văn bản, đề cương của Đoàn thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung thanh tra;
5.     Các văn bản, tài liệu của đối tượng thanh tra báo cáo theo đề cương, yêu cầu của Đoàn thanh tra;
6.     Các biên bản thanh tra do Trưởng đoàn, thành viên đoàn thanh tra lập khi làm việc với đối tượng thanh tra và những người có liên quan đến nội dung thanh tra;
7.     Các báo cáo của Đoàn thanh tra về tiến độ, tình hình thực hiện thanh tra với người ra quyết định thanh tra;
8.     Các văn bản, quyết định xử lý trong quá trình thanh tra;
9.     Các văn bản, báo cáo xác minh, kết luận các nội dung thanh tra của Đoàn, của các thành viên Đoàn thanh tra;
10. Nhật ký Đoàn thanh tra, lịch làm việc, giấy mời họp, làm việc của Đoàn thanh tra;
11. Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra;
12. Biên bản các buổi họp, làm việc của Đoàn thanh tra về báo cáo kết quả thanh tra;
13. Biên bản các cuộc họp, làm việc của Lãnh đạo cơ quan quyết định thanh tra, người quyết định thanh tra với Đoàn thanh tra và thông báo ý kiến kết luận của người chủ trì họp, làm việc (nếu có);
14. Các văn bản, tài liệu của đối tượng thanh tra giải trình về các nội dung kết luận thanh tra (nếu có);
15. Kết luận thanh tra, Báo cáo kết quả thanh tra của Thủ trưởng cơ quan ra quyết định thanh tra với cấp trên (nếu có);
16. Các văn bản kết luận, chỉ đạo xử lý, quyết định xử lý của người ra quyết định thanh tra hoặc người có thẩm quyền;
17. Tài liệu, văn bản xin ý kiến, văn bản trả lời, kết luận giám định của các cơ quan chức năng (nếu có);
18. Các văn bản, tài liệu khác có liên quan đến nội dung thanh tra được thu thập trong quá trình thanh tra, theo quy định tại khoản 2, Điều 2 của Quy chế này.
III. Sắp xếp tài liệu trong hồ sơ thanh tra
Hồ sơ thanh tra phải được sắp xếp theo nội dung và theo nhóm, đảm bảo khai thác sử dụng thuận tiện, nhanh chóng.
Nhóm 1. Các văn bản chủ yếu, gồm:
1. Quyết định thanh tra, quyết định gia hạn thời gian thanh tra, quyết định bổ sung hoặc thay đổi thành viên đoàn thanh tra (nếu có);
2. Kế hoạch thanh tra;
3. Các văn bản, chỉ thị của cấp có thẩm quyền là căn cứ ra quyết định thanh tra;
4.     Kết luận thanh tra, Báo cáo kết quả thanh tra của Thủ trưởng cơ quan ra quyết định thanh tra với cấp trên (nếu có);
5. Các văn bản kết luận, chỉ đạo xử lý, quyết định xử lý của người ra quyết định thanh tra hoặc người có thẩm quyền.
Nhóm 2. Các văn bản, tài liệu do Đoàn thanh tra, thanh tra viên hoặc người được giao nhiệm vụ soạn thảo, ban hành trong quá trình thanh tra, gồm:
1.     Báo cáo khảo sát, nắm tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra;
2.     Văn bản, đề cương của Đoàn thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung thanh tra;
3.     Các biên bản thanh tra do Trưởng đoàn, thành viên đoàn thanh tra lập khi làm việc với đối tượng thanh tra và những người có liên quan đến nội dung thanh tra;
4.     Các báo cáo về tiến độ, tình hình thực hiện nhiệm vụ thanh tra với người ra quyết định thanh tra;
5.     Các văn bản, quyết định xử lý trong quá trình thanh tra;
6.     Các văn bản, báo cáo xác minh các nội dung thanh tra của Đoàn hoặc các thành viên Đoàn thanh tra;
7.     Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra (gồm báo cáo chính thức và các bản dự thảo);
8.     Biên bản ghi nội dung các buổi họp, làm việc của Đoàn thanh tra về báo cáo kết quả thanh tra;
9.     Biên bản ghi nội dung các cuộc họp của Lãnh đạo cơ quan quyết định thanh tra hoặc người quyết định thanh tra với Đoàn thanh tra và thông báo ý kiến kết luận của người chủ trì họp, làm việc (nếu có);
10.                        Văn bản, tài liệu của đối tượng thanh tra giải trình về các nội dung kết luận thanh tra (nếu có);
11.                        Nhật ký Đoàn thanh tra, lịch làm việc, giấy mời họp, làm việc của Đoàn.
Nhóm 3. Văn bản, tài liệu thu thập từ đối tượng thanh tra, là chứng cứ phục vụ kết luận thanh tra, gồm:
1.     Văn bản, báo cáo của đối tượng thanh tra theo đề cương, yêu cầu của Đoàn thanh tra;
2.     Văn bản, báo cáo của đối tượng thanh tra cung cấp có liên quan đến nội dung thanh tra.
Nhóm 4. Văn bản, tài liệu khác phục vụ cho hoạt động thanh tra, gồm:
1.     Các loại đơn thư phản ánh có liên quan đến các nội dung thanh tra;
2.     Các tài liệu khác có liên quan đến cuộc thanh tra.

MỤC 2. LẬP, QUẢN LÝ HỒ SƠ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

I. Trình tự lập hồ sơ giải quyết khiếu nại
1. Mở hồ sơ
Thời điểm mở hồ sơ giải quyết khiếu nại là ngày người có thẩm quyền ký, ban hành Quyết định hoặc văn bản thụ lý giải quyết khiếu nại .
2. Thu thập, phân loại văn bản, tài liệu, lập mục lục để quản lý.
3. Đóng hồ sơ.
Thời điểm đóng hồ sơ giải quyết khiếu nại là ngày người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại;
II. Hồ sơ giải quyết khiếu nại
Hồ sơ giải quyết khiếu nại gồm:
1.     Đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại, giấy uỷ quyền khiếu nại (nếu có);
2.     Văn bản giao việc của cấp có thẩm quyền;
3.     Quyết định thụ lý hoặc quyết định thành lập đoàn thanh tra, tổ công tác, văn bản giao cán bộ thụ lý giải quyết khiếu nại;
4.     Văn bản, tài liệu, báo cáo, trả lời, tường trình, giải trình của người (bên) khiếu nại, người (bên) bị khiếu nại (nếu có);
5.     Các biên bản thẩm tra, xác minh, biên bản làm việc, đối thoại của Đoàn thanh tra, tổ công tác hoặc người được giao thụ lý giải quyết khiếu nại với người (bên) khiếu nại, người (bên) bị khiếu nại;
6.     Tài liệu trưng cầu giám định, kết luận, kết quả giám định của cơ quan chức năng (nếu có);
7.     Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh, kết luận các nội dung khiếu nại của Đoàn thanh tra, tổ công tác hoặc người được giao thụ lý giải quyết khiếu nại;
8.     Văn bản kết luận, kết quả thẩm tra, xác minh, chỉ đạo xử lý khiếu nại của cấp có thẩm quyền (nếu có);
9.     Quyết định giải quyết khiếu nại;
10. Các văn bản, tài liệu, hiện vật khác có liên quan đến nội dung khiếu nại được thu thập trong quá trình thụ lý, kết luận, giải quyết vụ việc.
III. Ghi số hồ sơ khiếu nại
-   Hồ sơ giải quyết khiếu nại của công dân phải được đánh số theo 02 dãy số liên tiếp và cách nhau bằng dấu “-“, gồm: dãy số Mã số đơn vị hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 8/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ), ghi theo địa chỉ của người khiếu nại (mã số từ cấp xã, phường, thị trấn) và dãy số thứ tự hồ sơ vụ việc phát sinh.
-   Hồ sơ giải quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức, đơn vị đánh số tương tự như vậy, ghi theo mã số hành chính, nơi đăng ký trụ sở chính của cơ quan, đơn vị, tổ chức và số thứ tự phát sinh.
IV. Sắp xếp tài liệu trong hồ sơ khiếu nại
Hồ sơ giải quyết khiếu nại được sắp xếp theo 2 nhóm.
Nhóm 1. Gồm các văn bản, tài liệu sau:
1.     Đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại, giấy uỷ quyền khiếu nại (nếu có);
2.     Văn bản giao việc của cấp có thẩm quyền;
3.     Quyết định thụ lý hoặc quyết định thành lập đoàn thanh tra, tổ công tác, văn bản giao cán bộ thụ lý giải quyết khiếu nại;
4.     Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh, kết luận các nội dung khiếu nại của Đoàn thanh tra, tổ công tác hoặc người được giao thụ lý giải quyết khiếu nại;
5.     Văn bản kết luận, kết quả thẩm tra, xác minh, chỉ đạo xử lý khiếu nại của cấp có thẩm quyền (nếu có);
6.     Quyết định giải quyết khiếu nại;
Nhóm 2. Gồm các văn bản, tài liệu sau:
1.     Văn bản, tài liệu, báo cáo, trả lời, tường trình, giải trình của người (bên) khiếu nại, người (bên) bị khiếu nại (nếu có);
2.     Các biên bản thẩm tra, xác minh, biên bản làm việc, đối thoại của Đoàn thanh tra, tổ công tác hoặc người được giao thụ lý giải quyết khiếu nại với người (bên) khiếu nại, người (bên) bị khiếu nại;
3.     Tài liệu trưng cầu giám định, kết luận, kết quả giám định của cơ quan chức năng (nếu có);
4.     Các văn bản, tài liệu, hiện vật khác có liên quan đến nội dung khiếu nại được thu thập trong quá trình thụ lý, kết luận, giải quyết vụ việc.

MỤC 3. LẬP, QUẢN LÝ HỒ SƠ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

I. Trình tự lập hồ sơ giải quyết tố cáo
1. Mở hồ sơ
Thời điểm mở hồ sơ giải quyết tố cáo là ngày người có thẩm quyền ký, ban hành Quyết định thụ lý giải quyết tố cáo.
2. Thu thập, phân loại văn bản, tài liệu, lập mục lục để quản lý.
3. Đóng hồ sơ.
Thời điểm đóng hồ sơ giải quyết tố cáo là ngày người có thẩm quyền ra quyết định xử lý tố cáo.
II. Hồ sơ giải quyết tố cáo
Hồ sơ giải quyết tố cáo gồm:
1.     Đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo;
2.     Văn bản giao việc của cấp trên có thẩm quyền (nếu có);
3.     Quyết định thụ lý giải quyết hoặc quyết định thành lập đoàn thanh tra, tổ công tác, văn bản cử cán bộ thụ lý giải quyết tố cáo;
4.     Kế hoạch thanh tra, thẩm tra, xác minh tố cáo;
5.     Biên bản thanh tra, thẩm tra xác minh của đoàn thanh tra, thanh tra viên hoặc của người được giao thẩm tra xác minh lập trong quá trình thụ lý giải quyết tố cáo;
6.     Văn bản về trưng cầu giám định và kết quả giám định (nếu có);
7.     Văn bản, tài liệu, hiện vật thu thập được trong quá trình thụ lý giải quyết tố cáo;
8.     Văn bản giải trình của người bị tố cáo (nếu có);
9.     Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo;
10. Kết luận về nội dung tố cáo;
11. Quyết định xử lý tố cáo;
12. Các tài liệu khác có liên quan đến nội dung tố cáo được thu thập trong quá trình thụ lý, giải quyết tố cáo.
III. Sắp xếp tài liệu trong hồ sơ giải quyết tố cáo
Hồ sơ giải quyết tố cáo phải được sắp xếp theo nội dung tố cáo (theo nhóm), đảm bảo khai thác sử dụng thuận tiện, nhanh chóng. Cụ thể như sau:
Nhóm 1. Gồm các văn bản, tài liệu sau:
1.     Đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo;
2.     Văn bản giao việc của cấp trên có thẩm quyền (nếu có);
3.     Quyết định thụ lý giải quyết hoặc quyết định thành lập đoàn thanh tra, tổ công tác, văn bản cử cán bộ thụ lý giải quyết tố cáo;
4.     Kế hoạch thanh tra, thẩm tra, xác minh tố cáo;
5.     Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo;
6.     Kết luận về nội dung tố cáo;
7.     Quyết định xử lý tố cáo;
Nhóm 2. Gồm các văn bản, tài liệu sau:
1.     Biên bản thanh tra, thẩm tra xác minh của đoàn thanh tra, thanh tra viên hoặc của người được giao thẩm tra xác minh lập trong quá trình thụ lý giải quyết tố cáo;
2.     Văn bản về trưng cầu giám định và kết quả giám định (nếu có);
3.     Văn bản, tài liệu, hiện vật thu thập được trong quá trình thụ lý giải quyết tố cáo;
4.     Văn bản giải trình của người bị tố cáo (nếu có);
5.     Các tài liệu khác có liên quan đến nội dung tố cáo được thu thập trong quá trình thụ lý, giải quyết tố cáo.

MỤC 4. LẬP HỒ SƠ XỬ LÝ SAU THANH TRA, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
Văn bản, tài liệu hình thành sau khi đóng hồ sơ theo quy định liên quan đến việc chỉ đạo, xử lý và thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo được lập thành hồ sơ riêng.
Sau khi kết thúc việc thực hiện, đơn vị hoặc người được phân công theo dõi xử lý phải bàn giao hồ sơ cho lưu trữ cơ quan để lưu cùng với hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo.

MỤC 5. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG, NỘP LƯU TRỮ HỒ SƠ THANH TRA, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Quản lý và sử dụng hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo
- Trong quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra hoặc người được giao nhiệm vụ xác minh, kết luận, kiến nghị giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo có trách nhiệm lập, quản lý, sử dụng và đảm bảo an toàn tuyệt đối hồ sơ tài liệu được thu thập.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý, lưu trữ hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo quy định việc khai thác, sử dụng hồ sơ của cơ quan, đơn vị mình.
- Trong trường hợp người khiếu nại khởi kiện vụ án hành chính ra Toà án thì hồ sơ đó phải được chuyển (bàn giao) cho Toà án khi có yêu cầu.
- Khi Đoàn thanh tra phát hiện đối tượng thanh tra có dấu hiệu tội phạm, việc bàn giao hồ sơ cho cơ quan điều tra thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-VKSNDTC-TTCP-BCA-BQP ngày 23/5/2006 về quan hệ phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan Thanh tra kiến nghị khởi tố.
2. Nộp lưu trữ hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo
- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ thời điểm đóng hồ sơ, Trưởng đoàn thanh tra, người được giao giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo phải hoàn chỉnh việc sắp xếp, lập mục lục và bàn giao hồ sơ cho bộ phận lưu trữ của cơ quan để quản lý, sử dụng.
- Việc quản lý, sử dụng hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, lưu trữ và quy định của cơ quan quản lý hồ sơ.