Pages

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2011

Bất cập trong các quy định pháp luật-Nguyên nhân phát sinh KN-TC

Trong những năm qua, các cơ quan nhà nước đã ý thức được tầm quan trong của công tác giải quyết khiếu nại, do đó, đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác này. Tuy vậy, tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do cơ chế, chính sách, pháp luật còn có những bất cập, chưa phù hợp thực tế; công tác quản lý nhà nước còn có những yếu kém, sai phạm...
Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến tình trạng trên đó là những quy định trong các văn bản về giải quyết KNTC hiện nay còn bất cập, vướng mắc, dẫn đến khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn. 
1. Về khiếu nại và thời hiệu giải quyết khiếu nại:

Khoản 1 và khoản 4 Điều 2 Luật KNTC năm 1998 quy định: khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình; “cơ quan tổ chức, khiếu nại” bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang; khoản 3 Điều 1 của Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định: “Tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là người đứng đầu tổ chức được quy định trong quyết định thành lập tổ chức hoặc trong Điều lệ của tổ chức…”.

Trong thực tế, có những “tổ chức” như dòng họ - không thuộc trong các loại tổ chức quy định trên và người đại diện (là Tộc trưởng hoặc những người cao tuổi trong dòng họ - là những chủ thể không được quy định rõ trong các văn bản pháp luật) khi có đơn khiếu nại (như việc cấp giấy CNQSD đất có liên quan đến nhà thờ họ...) thì các cơ quan nhà nước rất lúng túng và khó xác định họ có phải là tổ chức, là đối tượng được quyền thay mặt để khiếu nại hành chính hay không?

Bên cạnh đó, Điều 32 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005, quy định không thụ lý giải quyết khi “Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp”, nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ thể về mức độ, dấu hiệu, căn cứ để cơ quan có trách nhiệm xác định, kết luận người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Điều 31, Luật KNTC quy định “thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính”. Tuy vậy, trên thực tế một số quyết định hành chính ngay khi ban hành đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại nhưng họ không thể biết được vì quyết định đó không được gửi đến cho người khiếu nại. Ví dụ: UBND huyện X cấp giấy CNQSD đất cho hộ gia đình Y bị trùng trên một phần diện tích của hộ M liền kề, nhưng giấy CNQSD đất đó chỉ được gửi cho hộ Y, do đó hộ liền kề M không biết được giấy CNQSD đất đó trùng trên một phần đất của gia đình mình hoặc khi biết được đã quá thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính này. Trong những trường hợp này, nếu từ chối thụ lý vì lý do không thuộc đối tượng hoặc quá thời hiệu thì công dân tiếp tục khiếu kiện kéo dài, làm phức tạp tình hình hoặc khiếu nại vượt cấp, thông thường các cơ quan cấp trên vẫn chuyển đơn, yêu cầu cấp dưới xem xét giải quyết.

Để khắc phục tình trạng này cần có quy định mở rộng tổ chức và người thay mặt tổ chức đứng ra khiếu nại (như dòng họ, người thay mặt nhà thờ…); hướng dẫn cụ thể các trường hợp trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu; hướng dẫn cụ thể mức độ, dấu hiệu, căn cứ, những trường hợp nào được coi là không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để cơ quan có trách nhiệm xác định, kết luận người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để có cơ sở từ chối thụ lý giải quyết.

2. Về nghĩa vụ của người khiếu nại:

Tại khoản 2, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KNTC năm 2005 quy định người khiếu nại có nghĩa vụ “trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại”. Quy định như vậy là chưa thật sự “bắt buộc” người khiếu nại có nghĩa vụ phải cung cấp các bằng chứng chứng minh việc quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ khiếu nại thật sự ảnh hưởng, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình để người giải quyết xem xét thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết. Trên thực tế, có những vụ việc sau khi thụ lý, kiểm tra, xác minh cho thấy quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, làm mất thời gian, cũng như kinh phí của các cơ quan Nhà nước khi xem xét theo yêu cầu của họ. Trong khi đó nếu khởi kiện vụ án hành chính, hay dân sự tại Toà án thì đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp các bằng chứng để chứng minh việc có thật thiệt hại về tài sản, danh dự... và trong trường hợp đương sự không chứng minh được, thì đương nhiên Toà án từ chối, không thụ lý.

Nên chăng cũng quy định tương tự như Toà án về việc thụ lý giải quyết các vụ việc khiếu nại của cơ quan hành chính, theo nguyên tắc “nghĩa vụ chứng minh trước Toà” như trong tranh tụng xét xử ngay khi xem xét, xử lý đơn để quyết định thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết khiếu nại hành chính.

3. Về ủy quyền khiếu nại:

Theo quy định của Luật KNTC thì việc ủy quyền cho người đại diện theo quy định của pháp luật được thực hiện trong trường hợp “người khiếu nại là người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại; trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại” (Điểm 2, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KNTC năm 2005).

Thứ nhất, chúng ta thấy rằng trong trường hợp nào thì người khiếu nại được xem là “vì lý do khách quan” không thể tự mình khiếu nại mà được uỷ quyền khiếu nại. Ở đây chúng tôi muốn bàn đến trường hợp một người có đầy đủ năng lực hành vi nhưng có rất nhiều lý do như: bận đi công tác, chuyển nơi làm việc, sinh sống, bận nhiều công việc hoặc nếu người thân ốm đau phải chăm sóc  v.v... thì có được xem là lý do khách quan không?

Bên cạnh đó, thì khái niệm về “người khác” được hiểu như thế nào, ngoài “cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên” như quy định đã nêu? Trong tố tụng dân sự thì khi tham gia tố tụng các bên đương sự có thể ủy quyền cho bất kỳ một người khác có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người bào chữa hoặc “luật sư” thay mình tham gia tố tụng. Còn theo quy định của Luật KNTC (sửa đổi, bổ sung năm 2005) người khiếu nại chỉ có quyền “Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại”, như vậy thì “luật sư” ở đây có được xem là “người khác” không? Có được ủy quyền để khiếu nại thay không? được “giúp đỡ về pháp luật” trong giới hạn nào?  Mặt khác, nếu “luật sư” là cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên của người khiếu nại thì có được ủy quyền để khiếu nại thay hay không?

Thứ hai, theo quy định về trình tự giải quyết khiếu nại thì khi phát sinh khiếu nại, đương sự có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền để giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu đương sự không nhất trí thì có thể giải quyết khiếu nại lần tiếp theo (trừ các trường hợp là  vụ việc đã có quyết định giải quyết có hiệu lực thi hành hoặc việc khiếu nại đã được toà án thụ lý để giải quyết). Như vậy thì khi người khiếu nại ủy quyền cho người khác khiếu nại thay có bao gồm toàn bộ quá trình giải quyết khiếu nại hay chỉ mỗi lần (mỗi cấp) giải quyết đều có ủy quyền riêng?

Thứ ba, trường hợp sau khi cơ quan Nhà nước đã thụ lý vụ việc và đang tiến hành xem xét giải quyết vụ việc nhưng người khiếu nại (người ủy quyền) bị chết thì có tiếp tục giải quyết khiếu nại không? Nếu tiếp tục giải quyết thì khi ra quyết định giải quyết khiếu nại cho đối tượng là người khiếu nại hay người được ủy quyền khiếu nại?

Do đó, thiết nghĩ, để giải quyết các quy định không cụ thể, không rõ ràng này, đồng thời mở rộng và đảm bảo quyền cho người khiếu nại cần được quy định: “Trong mọi trường hợp thì người khiếu nại có thể được ủy quyền cho bất cứ người nào có đầy đủ năng lực hành vi thay mình để khiếu nại” mà không cần đưa ra các điều kiện khác; “việc ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản theo từng lần giải quyết với từng nội dung cụ thể được ủy quyền khiếu nại”; “Khi đang thụ lý giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại (không có người thừa kế) bị chết thì cơ quan thụ lý sẽ ra quyết định chấm dứt việc giải quyết khiếu nại” kể cả trường hợp khiếu nại đó đang được ủy quyền cho người khác khiếu nại thay.

4. Về đối thoại trong giải quyết khiếu nại:
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005) thì đối thoại trong giải quyết khiếu nại là việc gặp gỡ trực tiếp của người giải quyết khiếu nại với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc tổ chức đối thoại giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại là quyền và nghĩa vụ của người giải quyết khiếu nại; kết quả đối thoại là một trong những căn cứ để người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại … Có thể nói rằng đối thoại trong giải quyết khiếu nại nhằm mục đích giúp cho người giải quyết khiếu nại thu thập thông tin, củng cố chứng cứ  khi quyết định các vấn đề để giải quyết khiếu nại. Tuy vậy, quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn có liên quan hiện nay còn nhiều điểm chưa rõ ràng, dẫn đến thiếu tính thống nhất trong tổ chức thực hiện.

Về quy định “có thể gặp gỡ, đối thoại” trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, thường dẫn đến sự tùy tiện, ngại đối thoại của người có thẩm quyền khi giải quyết khiếu nại. Hơn nữa đối với những vụ việc đã giải quyết lần đầu mà đương sự còn khiếu nại thường là những vụ việc phức tạp, kéo dài vì vậy đối thoại giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại là hết sức cần thiết để tìm hiểu rõ nguyên nhân, vướng mắc. Do vậy cần quy định rõ là trong bất cứ trường hợp nào thì khi giải quyết khiếu nại cũng cần phải tổ chức đối thoại để đảm bảo tính khách quan, chính xác khi giải quyết vụ việc.

Bên cạnh đó, thực trạng hiện nay khi tổ chức đối thoại thì tùy theo khả năng và nhận thức của từng địa phương, từng cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, cho nên về mặt thành phần tham gia, nội dung, phương pháp trong đối thoại được thực hiện không thống nhất, hiệu quả chưa cao. Do đó cần có quy định hướng dẫn việc tổ chức đối thoại một cách cụ thể  hơn./.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét